Tuyển dụng và duy trì một lực lượng lao động lành nghề là yếu tố then chốt cho sự thành công của mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, không ít trường hợp người sử dụng lao động buộc phải đưa ra quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Quyết định này, dù xuất phát từ nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, lại đặt ra nhiều vấn đề pháp lý phức tạp, đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật lao động hiện hành. Việc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không đúng trình tự, thủ tục hoặc không có căn cứ pháp luật vững chắc có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, việc hiểu rõ và áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động, cũng như nắm vững những hậu quả pháp lý có thể xảy ra khi hành vi này đi ngược lại các quy định của pháp luật, trở thành một yêu cầu cấp thiết đối với mọi doanh nghiệp.
- Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là gì?
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) là trường hợp người sử dụng lao động (NSDLĐ) hoặc người lao động (NLĐ) chấm dứt HĐLĐ theo các căn cứ và trình tự, thủ tục do pháp luật quy định dẫn đến việc chấm dứt hiệu lực pháp lý của HĐLĐ trước thời hạn mà không phụ thuộc vào ý chí của bên còn lại trong quan hệ lao động. Thực chất, đây là hành vi thể hiện ý chí đơn phương của một bên trong quan hệ lao động không muốn tiếp tục thực hiện HĐLĐ dẫn đến chấm dứt quyền và nghĩa vụ của hai bên trong HĐLĐ.
Bộ luật lao động năm 2019 (BLLĐ 2019) cho phép NLĐ và NSDLĐ đều có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, được quy định cụ thể tại các Điều 35, 36 và 37 của Bộ luật này. Các trường hợp chấm dứt HĐLĐ không đúng quy định của pháp luật lao động được gọi là đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.
- Các trường hợp NSDLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ
Khác với việc NLĐ được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà không cần lý do, chỉ cần báo trước đối với từng loại hợp đồng cụ thể, thì NSDLĐ chỉ có thể được đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong các trường hợp được pháp luật quy định. Cụ thể, Điều 36 BLLĐ 2019 quy định NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong những trường hợp sau:
– NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc theo HĐLĐ được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của NSDLĐ. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do NSDLĐ ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở;
– NLĐ bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc quá nửa thời hạn HĐLĐ đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của NLĐ bình phục thì NSDLĐ xem xét để tiếp tục giao kết HĐLĐ với NLĐ;
– Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà NSDLĐ đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc;
– NLĐ không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của BLLĐ 2019;
– NLĐ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của BLLĐ 2019, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
– NLĐ tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên;
– NLĐ cung cấp không trung thực thông tin khi giao kết HĐLĐ làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng NLĐ.
Bên cạnh đó, NSDLĐ muốn đơn phương chấm dứt HĐLĐ cũng cần tuân thủ các yêu cầu về thời gian báo trước, các khoản chi trả, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc cho NLĐ theo đúng quy định của pháp luật. Theo khoản 2 Điều 36 BLLĐ 2019, NSDLĐ phải báo trước cho NLĐ như sau:
– Ít nhất 45 ngày đối với HĐLĐ không xác định thời hạn;
– Ít nhất 30 ngày đối với HĐLĐ xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
– Ít nhất 03 ngày làm việc đối với HĐLĐ xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng và đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36;
– Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
– Khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ quy định tại điểm d và điểm e khoản 1 Điều 36 thì NSDLĐ không phải báo trước cho NLĐ.
- Các trường hợp NSDLĐ không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ
Điều 37 BLLĐ 2019 quy định về các trường hợp NSDLĐ không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ, cụ thể như sau:
– NLĐ ốm đau hoặc bị tai nạn, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36 của BLLĐ.
– NLĐ đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và trường hợp nghỉ khác được NSDLĐ đồng ý.
– NLĐ nữ mang thai; NLĐ đang nghỉ thai sản hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
4. Hậu quả pháp lý đối với NSDLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
BLLĐ 2019 đã quy định về những trường hợp NSDLĐ được và không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Những trường hợp NSDLĐ chấm dứt HĐLĐ không đúng quy định đều là những trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật và NSDLĐ sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý nhất định. Cụ thể, Điều 41 BLLĐ 2019 quy định NSDLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật phải có các nghĩa vụ sau:
– NSDLĐ phải nhận NLĐ trở lại làm việc theo HĐLĐ đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày NLĐ không được làm việc và phải trả thêm cho NLĐ một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ. Sau khi được nhận lại làm việc, NLĐ hoàn trả cho NSDLĐ các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của NSDLĐ.
Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong HĐLĐ mà NLĐ vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ.
Trường hợp NSDLĐ vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của BLLĐ 2019 thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo HĐLĐ trong những ngày không báo trước.
– Trường hợp NLĐ không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều 41 BLLĐ 2019, NSDLĐ phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định để chấm dứt HĐLĐ.
– Trường hợp NSDLĐ không muốn nhận lại NLĐ và NLĐ đồng ý thì ngoài khoản tiền NSDLĐ phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều 41 và trợ cấp thôi việc, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho NLĐ nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ để chấm dứt HĐLĐ.